Coi bàn tay số (1) ở trước, tuổi nào đứng vào cung nấy, tính năm nào khởi 1 (1 tuổi) lên cung đó đếm ngược lại (ngược chiều kim đồng hồ), mỗi tuổi mỗi cung.
Giả như năm nay là năm Mẹo (1987), đứa nhỏ 13 tuổi, hỏi tuổi nó tuổi gì, ta biết ngay nó tuổi Mẹo (Mão) rồi, nhưng ta cứ thử tính: đếm 1 lên cung Mẹo (Mão), theo bàn tay số (1), 2 lên cung Dần, 3 lên cung Sửu, 4 lên cung Tý, 5 lên cung Hợi, 6 lên cung Tuất, 7 lên cung Dậu, 8 lên cung Thân, 9 lên cung Mùi, 10 lên cung Ngọ, 11 lên cung Tỵ, 12 lên cung Thìn, 13 lại trúng lên cung Mẹo. Vậy, ta không đếm như thế mất thì giờ, năm Mẹo ta cứ đếm ngay tại cung Mẹo: 1, 13 thì ta biết ngay 13 tuổi là tuổi Mẹo.
Hãy tính đứa nhỏ 16 tuổi coi năm Mẹo này nó tuổi gì? Ta đếm ngay ở cung Mẹo: 1, 13, thì ngừng lại, 14 tại cung Dần, 15 tại cung Sửu, 16 tại cung Tý, ta biết 16 tuổi là tuổi Tý.
Hãy tính coi năm Mẹo này (1987) người 39 tuổi, tuổi gì? Ta bấm tay lên cung Mẹo và hô: 1, 13, 25, 37 (tại cung Mẹo, thấy gần số 39 thì ngừng lại) 38 tại cung Dần, 39 tại cung Sửu. Vậy, người 39 tuổi trong năm Mẹo là tuổi Sửu.
Như các thí dụ trên, ta tính để biết người đó bao nhiêu tuổi là tuổi gì. Còn trường hợp thứ hai là ta đã biết người đó tuổi gì, nhưng không biết chính xác là bao nhiêu tuổi, giờ ta tính để biết được thật đúng. Trường hợp này ta phải xem người hỏi cở bao nhiêu mới tính được.
Thí dụ: Năm Mẹo (1987) người tuổi Mùi ngoài 40, vậy đúng là bao nhiêu tuổi? Ta cũng y như trên mà tính, đếm tới cung Mùi được số mấy là tuổi của người đó. Ta bấm tay lên cung Mẹo và đếm: 1, 13, 25, 37 rồi ngược chiều kim đồng hồ, 38 tại cung Dần, 39 tại cung Sửu, 40 tại cung Tý, 41 tại cung Hợi, 42 tại cung Tuất, 43 tại cung Dậu, 44 tại cung Thân, 45 tại cung Mùi. Vậy năm Mẹo (1987) tuổi Mùi này đúng là 45 tuổi.
Như trên là ta biết tuổi tìm chi và biết chi tìm tuổi, giờ ta lại căn cứ theo tuổi mà tìm can của chi. Muốn tìm can của chi, ta phải biết tuổi đó nằm trong vòng con giáp nào của 6 con giáp.
Trở lại các tuổi đã dẫn ở trước: 16, 39 và 45 cho dễ nhận.
(Chú ý: đầu con giáp nó ở vào một năm lẽ rồi một năm chẵn như năm Dần, 1986 nó ở vào con số 13, 23 hay 33 ... vào năm Mẹo 1987 nó lại ở vào con số chẵn 14, 24, 34 ...).
Thí dụ 1: Tính coi năm Mẹo, người 16 tuổi là tuổi Tý mà Tý nào? Con nhà giáp gì?
Ta bấm ngón tay lên cung Mẹo và hô: 1, 13 tại cung Mẹo, 14 tại cung Dần, 15 tại cung Sửu, 16 tại cung Tý (là tuổi Tý), rồi ta đếm luôn tới để tìm đầu con giáp: 17 tại cung Hợi, 18 tại cung Tuất, 19 tại cung Dậu, 20 tại cung Thân, 21 tại cung Mùi, 22 tại cung Ngọ, 23 tại cung Tỵ, 24 tại cung Thìn thì dừng lại vì đã đúng ngay vào vị trí của vòng GIÁP THÌN. Vậy tuổi Tý 16 này thuộc về “con nhà GIÁP THÌN”. Giờ theo chiều thuận của kim đồng hồ, ngay trên cung Thìn của con số 24 đó, ta hô: giáp, cung Tỵ Ất, cung Ngọ Bính, cung Mùi Đinh, cung Thân Mồ (mậu), cung Dậu Kỷ, cung Tuất Canh, cung Hợi Tân đến cung Tý Nhâm, tức là tuổi Nhâm Tý. (Con nhà Giáp Thìn Nhâm Tý).
Có người thắc mắc, làm sao biết khi đếm số 24 là đầu con giáp của tuổi Tý 16 mà dừng lại?
- Xin đáp: Vì mỗi một con giáp là mười năm, nên có một năm lẽ một năm chẵn xen nhau. khi ta đếm qua con số chục rồi tới số đơn vị, hễ khi nào tới số chẵn thì đầu con giáp là số chẵn, khi nào tới số lẽ thì đầu con giáp là số lẽ. Nếu sợ quên thì cứ lấy cái tuổi của mình để nhớ. Như năm Mẹo này đầu con giáp phải đếm tới số chẵn, năm tới là số lẽ.
Thí dụ 2: Tính coi năm Mẹo (1987) này, người tuổi Thân 44 tuổi là tuổi Thân gì? Con nhà giáp gì?
Ta cứ ngay nơi cung Mẹo (cũng là năm Mẹo) đếm chồng lên: 1, 13, 25, 37 thấy gần tới tuổi của người đó thì ngưng lại, rồi theo chiều ngược kim đồng hồ đếm tiếp: 38 tại cung Dần, 39 tại cung Sửu, 40 tại cung Dậu, 41 tại cung Hợi, 42 tại cung Tuất, 43 tại cung Dậu, 44 tại cung Thân là tuổi của người đó thì dừng lại, ta thấy người 44 tuổi là tuổi Thân, nhưng ta lại thấy 44 tuổi là số chẵn 4 ngay cung Giáp Thân, khỏi đếm tới nữa, ta thấy ngay người 44 tuổi là tuổi Giáp Thân mà cũng con nhà Giáp Thân.
Tìm mạng có hai cách: Một là tìm theo “Chánh Ngũ Hành”, người ta gọi là tìm tắc, hai là tìm theo “Ngũ Hành Nạp Âm”, là tìm đủ.
I. Tìm mạng theo “Chánh Ngũ hành” là muốn biết người đó thuộc về hành nào trong năm hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Muốn tìm mạng theo Chánh Ngũ Hành, ta phải thuộc lòng bài sau đây:
TÝ, NGỌ: Ngân, Đăng, Giá, Bích, Câu.
THÌN, TUẤT: Yên, Mãn, Tự, Chung, Lâu.
DẦN, THÂN: Hớn, Địa, Thiêu, Sài, Thấp.
Thử thị Lục giáp khởi vi đầu.
PHẦN CHỮ HÁN: [ ]
GIẢI NGHĨA:
Tý, Ngọ: Giáp Tý và Giáp Ngọ: Ngân= Kim; Đăng= Hỏa;
Giá= Mộc; Bích= Thổ; Câu= Kim.
Thìn, Tuất: Giáp Thìn và Giáp Tuất: Yên= Hỏa; Mãn= Thủy;
Tự= Thổ; Chung= Kim; Lâu= Mộc.
Dần, Thân: Giáp Dần và Giáp Thân: Hớn= Thủy; Địa= Thổ;
Thiêu= Hỏa; Sài= Mộc; Thấp= Thủy.
Như trên là khởi đầu của sáu con giáp.
Tính người 31 tuổi trong năm Mẹo (1987) này coi mạng gì?
Muốn tìm mạng ta cũng phải tính như tính tuổi để tìm tuổi người đó nằm vào vòng con giáp nào, rồi căn cứ ngay đầu con giáp đó theo chiều thuận của kim đồng hồ mà đếm, cứ 2 tuổi kế tiếp một chữ, đến tuổi của người đó thì dừng lại coi nó đúng vào chữ gì là biết người đó thuộc mạng gì.
Giờ tính người 31 tuổi trên coi mạng gì?
Năm Mẹo bấm tại cung Mẹo: 1, 13, 25 rồi 26 tại Dần, 27 tại Sửu, 28 tại Tý, 29 tại Hợi, 30 tại Tuất, 31 tại Dậu (đếm luôn tới đầu con giáp) 32 tại Thân, 33 tại Mùi, 34 tại Ngọ (thuộc Giáp Ngọ, ta dùng câu: Tý Ngọ: Ngân đăng giá bích câu), ta bấm tay tại Ngọ hô: Ngân, tại Mùi Ngân, tại Thân Đăng, tại Dậu Đăng. Người 31 tuổi là mạng Hỏa (vì chữ Đăng có bộ Hỏa).
Năm Mẹo (1987), người 60 tuổi mạng gì?
Ta bấm tay tại cung Mẹo, đếm chồng lên: 1, 13, 25, 37, 49 rồi 50 tại Dần, 51 tại Sửu, 52 tại Tý, 53 tại Hợi, 54 tại Tuất, 55 tại Dậu, 56 tại Thân, 57 tại Mùi, 58 tại Ngọ, 59 tại Tỵ, 60 tại Thìn (60 tuổi Thìn), 61 tại Mẹo, 62 tại Dần, 63 tại Sửu, 64 tại Tý (thuộc con nhà Giáp Tý). Ta cũng dùng câu “Tý Ngọ: Ngân đăng giá bích câu” và hô: Ngân tại Tý (thuận chiều), Ngân tại Sửu, Đăng tại Dần, Đăng tại Mẹo, Giá tại Thìn (dừng lại). Người 60 tuổi (năm Mẹo: 1987) là tuổi Thìn, mạng Mộc.
CHÚ Ý:
1. Tính mạng (ngũ hành) cho những tuổi khác cũng đều cùng một cách, theo cách tính trên mà suy ra.
2. Bao giờ hai tuổi cũng đi liền nhau cùng một mạng tính từ đầu con giáp, nên khi tìm mạng ta phải đọc như sau theo chiều thuận của kim đồng hồ:
Tý, Ngọ: Ngân ngân, đăng đăng, giá giá, bích bích, câu câu.
Thìn, Tuất: Yên yên, mãn mãn, tự tự, chung chung, lâu lâu.
Dần, Thìn: Hớn hớn, địa địa, thiêu thiêu, sài sài, thấp thấp.
II. Tìm mạng theo “Ngũ Hành Nạp Âm” là tìm đủ, trước ta chỉ tìm cho biết là mạng Kim hay mạng Mộc mà thôi, chứ chưa biết là Kim gì và Mộc gì. Giờ ta tìm cho rõ hơn, trước khi biết qua cách tìm, ta nên xem qua bảng Ngũ Hành Nạp Âm đã lập thành dưới đây:
VÒNG CON GIÁP | NGŨ HÀNH NẠP ÂM | CHỮ ĐẠI BIỂU |
GIÁP TÝ, Ất Sửu | Hải trung - Kim | HẢI |
Bính Dần, Đinh Mẹo | Lư trung - Hỏa | LƯ |
Mậu Thìn, Kỷ Tỵ | Đại Lâm - Mộc | LÂM |
Canh Ngọ, Tân Mùi | Lộ Bàng - Thổ | LỘ |
Nhâm Thân, Quý Dậu | Kiếm Phong – Kim | KIẾM |
GIÁP TUẤT, Ất Hợi | Sơn Đầu - Hỏa | ĐẦU |
Bính Tý, Đinh Sửu | Giản Hạ - Thủy | GIẢN |
Mậu Dần, Kỷ Mẹo | Thành Đầu - Thổ | THÀNH |
Canh Thìn, Tân Tỵ | Bạch Lạp – Kim | LẠP |
Nhâm Ngọ, Quý Mùi | Dương liễu - Mộc | DƯƠNG |
GIÁP THÂN, Ất Dậu | Tuyền Trung - Thủy | TUYỀN |
Bính Tuất, Đinh Hợi | Ốc Thượng - Thổ | ỐC |
Mậu Tý, Kỷ Sửu | Thích Lịch - Hỏa | LỊCH |
Canh Dần, Tân Mẹo | Tòng Bá - Mộc | TÒNG |
Nhâm Thìn, Quý Tỵ | Trường Lưu - Thủy | TRƯỜNG |
GIÁP NGỌ, Ất Mùi | Sa Trung - Kim | SA |
Bính Thân, Đinh Dậu | Sơn Hạ - Hỏa | SƠN |
Mậu Tuất, Kỷ Hợi | Bình Địa - Mộc | BÌNH |
Canh Tý, Tân Sửu | Bích Thượng – Thổ | BÍCH |
Nhâm Dần, Quý Mẹo | Kim Bạch - Kim | BẠCH |
GIÁP THÌN, Ất Tỵ | Phú Đăng - Hỏa | PHÚ |
Bính Ngọ, Đinh Mùi | Thiên Hà - Thủy | HÀ |
Mậu Thân, Kỷ Dậu | Đại Dịch - Thổ | DỊCH |
Canh Tuất, Tân Hợi | Thoa Xuyến – Kim | XUYẾN |
Nhâm Tý, Quý Sửu | Tang Đố - Mộc | TANG |
GIÁP DẦN, Ất Mẹo | Đại Khê- Thủy | KHÊ |
Bính Thìn, Đinh Tỵ | Sa Trung - Thổ | TRUNG |
Mậu Ngọ, Kỷ Mùi | Thiên Thượng - Hỏa | THIÊN |
Canh Thân, Tân Dậu | Thạch Lựu - Mộc | THẠCH |
Nhâm Tuất, Quý Hợi | Đại Hải - Thủy | ĐẠI |
Giờ ta đọc thuộc lòng mấy câu sau đây để tìm “Ngũ Hành Nạp Âm”:
NHỨT THỬ: Hải, Lư, Lâm, Lộ, Kiếm.
NHI KHUYỂN: Đầu, Giản, Thành, Lạp, Dương.
TAM HẦU: Tuyền, Ốc, Lịch, Tòng, Trường.
TỨ MÃ: Sa, Sơn, Bình, Bích, Bạch.
NGŨ LONG: Phú (Phúc), Hà, Dịch, Xuyến, Tang.
LỤC HỔ: Khê, Trung, Thiên, Thạch, Đại.
CHÚ THÍCH:
THỬ: Chuột; Tý, là Giáp Tý.
KHUYỂN: Cẩu, chó; Tuất, là Giáp Tuất.
HẦU: Khỉ; Thân, là Giáp Thân.
MÃ: Ngọ, Giáp Ngọ.
LONG: Rồng; Thìn, Giáp Thìn.
HỔ:Cọp; Dần, Giáp Dần.
Tìm mạng theo “Ngũ Hành Nạp Âm” cũng giống y như cách tìm mạng theo “Chánh Ngũ Hành” ở trước. Nghĩa là phải biết tuổi đó thuộc con nhà Giáp gì, rồi từ đầu con Giáp đó đếm theo chiều thuận với kim đồng hồ, tới tuổi của người đó coi trúng vào chữ gì thì biết người đó thuộc mạng gì.
Thí dụ 1: Tìm mạng theo “Ngũ Hành Nạp Âm” của người 31 tuổi, trong năm Mẹo này 1987, coi thuộc mạng gì?
Như trước, ta đã tìm biết người 31 tuổi, “Chánh Ngũ Hành” là mạng Hỏa, con nhà Giáp Ngọ, vậy ta dùng câu “TỨ MÃ: Sa, Sơn, Bình, Bích, Bạch” và đọc : Sa sa , Sơn sơn, Bình bình, Bích bích, Bạch bạch. Vì hai tuổi kè nhau cùng một mạng, các câu khác thuộc con Giáp khác cũng đọc y như vậy.
Giờ ta bấm tay ngay cung Giáp Ngọ mà hô: Sa tại Ngọ, Sa tại Mùi, Sơn tại Thân, Sơn tại Dậu thì dừng lại (vì người 31 tuổi, năm nay là tuổi Dậu), ta thấy tại cung Dậu nhằm chữ SƠN, chữ SƠN đại biểu cho SƠN HẠ HỎA. Vậy người tuổi Dậu 31 tuổi (năm 1987) thuộc mạng Sơn Hạ Hỏa.
Thí dụ 2: Người tuổi Mậu Thìn, năm Mẹo này (1987) 60 tuổi, con nhà Giáp Tý, “Ngũ Hành Nạp Âm” thuộc mạng gì?
Ta đã biết là tuổi Thìn con nhà Giáp Tý, ta dùng ngay câu “NHỨT THỬ: Hải, Lư, Lâm, Lộ, Kiếm” và tính: Bấm tay vào cung Tý, theo chiều thuận, hô: Hải tại Tý, Hải tại Sửu, Lư tại Dần, Lư tại Mẹo, Lâm tại Thìn dừng lại. Chữ Lâm đại biểu cho “ Đại Lâm - Mộc”. Vậy tuổi Mậu Thìn thuộc mạng Đại Lâm - Mộc.
Thí dụ 3: Năm Mẹo (1987) này, người 40 tuổi tính theo “Ngũ Hành Nạp Âm” thuộc mạng gì?
Muốn tính, ta phải biết người 40 tuổi là tuổi gì, con nhà giáp gì, mới tính được. Ta áp dụng cách tính tuổi để tìm can, chi và con giáp của tuổi 40. Năm nay năm Mẹo, ta bấm tay lên cung Mẹo hô: 1, 13, 25, 37 rồi 38 tại Dần, 39 tại Sửu, 40 tại Tý. Ta biết người 40 tuổi là tuổi Tý. Nếu muốn tìm con giáp, ta tính luôn tới: 41 tại Hợi, 42 tại Tuất, 43 tại Dậu, 44 tại Thân thì dừng lại vì đã tới đầu con giáp rồi (năm nay Mẹo, đầu con giáp ở số chẵn). Nếu muốn biết người 40 tuổi là tuổi Tý mà Tý gì thì ta bấm tay tại cung Thân theo chiều thuận mà đếm mỗi cung mỗi chữ: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu tới cung Tý thì dừng lại, ấy là tuổi Mậu Tý. Ta thấy tuổi Mậu Tý 40 tuổi này con nhà Giáp Thân, ta dùng câu “TAM HẦU: Tuyền, Ốc, Lịch, Tòng, Trường” để tính. Theo chiều thuận, ta bấm tay lên cung Giáp Thân hô: Tuyền tại Thân, Tuyền tại Dậu, Ốc tại Tuất, Ốc tại Hợi, Lịch tại Tý, ta thấy tại cung Tý của tuổi Tý trúng nhằm chữ Lịch, chữ Lịch đại biểu cho “Thích Lịch - Hỏa”.
Vậy, năm Mẹo này người 40 tuổi là tuổi Mậu Tý, con nhà Giáp Thân, mạng Thích Lịch - Hỏa.
Ta đã biết về Ngũ Hành Nạp Âm và cách tính Ngũ Hành Nạp Âm, vậy ta cũng nên biết qua sự sanh khắc chế hóa riêng biệt của nó để sử dụng thì mới bổ ích.
Ta hãy đọc các bài văn vần và lời giải thích sau đây cho dễ nhớ: Theo Chánh Ngũ Hành: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Mỗi lần thấy khắc là luôn luôn có tai hại.
Theo Ngũ Hành Nạp Âm, có khi hành này khắc hành kia không phải là xấu, trái lại nhờ khắc đó mà trở thành tốt.
Hãy xem năm bài nói về Ngũ Hành Nạp Âm dưới đây:
HÀNH KIM
Sa trung, Kiếm phong lưỡng ban cầm (cầm = Kim)
Nhược cư chấn địa (Mộc) tiện tương xâm.
Ngoại hữu tứ kim tu kỵ Hỏa,
Kiếm, Sa vô Hỏa bất thành hình.
NGHĨA:
Hai thứ Ngũ Hành Nạp Âm là: Sa trung – Kim và Kiếm phong – Kim nếu gặp Mộc (chấn = Mộc) thì khắc ngay. Ngoài ra bốn thứ Kim khác là Hải trung – Kim, Bạch Lạp – Kim, Kim Bạch – Kim và Thoa Xuyến – Kim đều kỵ Hỏa. Riêng về Kiếm Phong – Kim, Sa trung – Kim chẳng những không kỵ Hỏa mà trái lại còn phải nhờ Hỏa mới thành đồ dùng.
Nhưng CAN, CHI nếu gặp THIÊN khắc ĐỊA xung thì phải tránh. Thí dụ: Nhâm Thân, Quý Dậu là Kiếm phong Kim gặp Bính Dần, Đinh Mẹo Lư trung Hỏa thì phải tránh là tốt (Nhâm, Quý thuộc Thủy; Bính, Đinh thuộc Hỏa; Thân, Dậu thuộc Kim; Dần, Mẹo thuộc Mộc; Thủy khắc Hỏa, Kim khắc Mộc).
HÀNH MỘC
Tòng bá, Dương Liễu, Tang đô Mộc,
Thạch lựu, Đại lâm kỵ kim đao.
Duy hữu thản nhiên Bình địa Mộc
Vô kim bất đắc thượng thanh vân.
NGHĨA:
Năm thứ Mộc là: Tòng Bá - Mộc, Dương liễu - Mộc, Thạch lựu - Mộc và Đại Lâm - Mộc đều bị Kim khắc, chỉ có một thứ Bình địa Mộc (gổ) chẳng những không sợ Kim khắc mà còn cần phải có Kim khắc mới được đắc dụng, nếu không thật khó cầu công danh phú quý.
Thủy kiến: Thiên hà, Đại hải lưu,
Nhị giả bất phạ chổ vi cừu.
Ngoại hữu số ban tu kỵ thổ,
Nhất sanh y lặc tất nan cầu.
NGHĨA:
Hai thứ Thủy là: Thiên hà Thủy va Đại hải Thủy, không khi nào sợ Thổ khắc; nhưng nếu gặp CAN CHI Thiên khắc Địa xung phải tránh mới tốt. Thí dụ Bính Ngọ, Đinh Mùi là Thiên hà Thủy gặp Canh Tý, Tân Sửu là Bích thượng Thổ nên tránh là tốt.
Ngoài ra, các thứ Thủy khác là: Giản hạ Thủy, Tuyền trung Thủy, Trường lưu Thủy và Đại khê Thủy đều bị Thổ khắc. Nếu bị Thổ khắc, tất nhiên một đời khó cầu y lộc.
HÀNH HỎA
Phú đăng, Lư Hỏa dữ Sơn đầu,
Tam giả nguyên lai phạ thủy lưu.
Ngoại hữu tam ban bất phạ thủy,
Nhất sanh y lộc cận Vương hầu.
NGHĨA:
Ba thứ Hỏa là: Phú đăng Hỏa, Lư trung Hỏa và Sơn đầu Hỏa đều sợ Thủy khắc. Ngoài ra ba thứ Hỏa khác là: Thiên thượng Hỏa, Thích lịch Hỏa, Sơn hạ Hỏa lại không sợ Thủy, trái lại nếu được Thủy khắc thì các mạng đó sẽ được y lộc đầy đủ, một đời gần bực Vương hầu.
HÀNH THỔ
Thành đầu, Ốc thượng dữ Bích thượng,
Tam thổ nguyên lai phạ Mộc xung.
Ngoại hữu tam ban bất phạ Mộc,
Nhứt sanh thanh quý bộ thiềm cung.
NGHĨA:
Ba thứ Thổ là: Thành đầu Thổ, Ốc thượng Thổ và Bích thượng Thổ vốn sợ Mộc khắc. Ngoài ra, có ba thứ Thổ khác là: Lộ bàng Thổ, Đại dịch Thổ và Sa trung Thổ đều không sợ Mộc, trái lại nếu có Mộc khắc càng tốt, đời người sẽ được thanh quý, cao sang, vào trường thi ắt đậu (đăng khoa).
NGŨ HÀNH TỲ HÒA:
Tỳ hòa, có nghĩa là hai bên ngũ hành cùng một loại, như anh em ngang vai(tỳ=tỷ=sánh, hòa=huề, không bên nào hơn bên nào), như: Mộc với Mộc, Hỏa với Hỏa vân vân ...
Tỳ hòa có tốt có xấu:
Trường hợp tốt, người ta nói:
Lưỡng Hỏa thành viêm
Lưỡng Mộc thành lâm
Lưỡng Thủy thành xuyên
Lưỡng Thổ thành sơn
Lưỡng Kim thành khí
Đây là hai bên cùng đồng một loại ngũ hành chung hiệp với nhau mà CAN CHI cũng được sanh hợp để giúp thêm sức mạnh cho nhau, đó là tốt.
Thí dụ: Giáp Thìn, Ất Tỵ là Phú đăng Hỏa (lửa đèn) và Bính Thân, Đinh Dậu là Sơn hạ Hỏa (lửa dưới núi), hai bên sanh hợp lẫn nhau (Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa = tương sanh; Thìn thuộc Thổ, Tỵ thuộc Hỏa= tương sanh; Thân Dậu đều thuộc Kim=tỳ hòa) mới thêm sức nóng, sức sáng, thì gọi là “Lưỡng Hỏa thành viêm”).
Trường hợp xấu, người ta lại nói:
Lưỡng Mộc Mộc chiết
Lưỡng Kim Kim khuyết
Lưỡng Hỏa Hỏa diệt
Lưỡng Thủy Thủy kiệt
Lưỡng Thổ Thổ liệt
Đây là hai bên cũng đồng thuộc về một ngũ hành nạp âm như nhau mà có CAN khắc hay CHI xung, nếu bổn mạng bị xung khắc thì không nên dùng. Trường hợp này, không bao giờ có vừa CAN khắc vừa CHI xung cùng một lúc.
Thí dụ: Mậu Tý, Kỷ Sửu là Thích lịch Hỏa và Mậu Ngọ, Kỷ Mùi là Thiên thượng Hỏa, hai bên Thiên can đồng một loại mà Địa chi lại tương xung (Tý thuộc Thủy, Sửu thuộc Thổ; Ngọ thuộc Hỏa, Mùi thuộc Thổ). Nếu hai bên gặp nhau ma bổn mạng bị xung hay khắc thì gọi là “Lưỡng hỏa hỏa diệt”.
Cũng có sách nói: Hai bên đồng một ngũ hành, cả hai đều yếu sức mà gặp nhau là tốt, như lửa đèn và lửa duới núi hiệp nhau đã nói ở trên thì gọi là: “Lưỡng hỏa thành viêm”, còn như hai bên đồng một thứ ngũ hành mà cả hai đều mạnh, nếu gặp nhau là xấu.
Thuyết này không hẳn đúng, không nên quá tin. Vì dầu yếu dầu mạnh mà CAN CHI tương sanh tương hợp hay CAN CHI tuy xung khắc mà không xung khắc bổn mạng thì cũng ít hại.
“Ngũ hành nạp âm” tương khắc còn có khi tốt huống chi là hai bên Tỳ hòa nhau, phần tốt lấn hơn phần xấu là dùng được rồi.
Điều nên chú ý: Chánh Ngũ Hành mới là quan trọng, còn Ngũ Hành Nạp Âm là phần phụ mà thôi.
Nên biết thêm:
1. Tháng giêng là tháng Dần, tháng hai là Mẹo, tháng ba là Thìn, tháng tư là Tỵ, tháng năm là Ngọ, tháng sáu là Mùi, tháng bảy là Thân, tháng tám là Dậu, tháng chín là Tuất, tháng mười là Hợi, tháng mười một là Tý, tháng chạp (12) là Sữu.
2. Mười hai trực, mỗi ngày một trực: Kiến, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai, Bế. (Khi chọn ngày, người ta chọn những ngày có trực: Trừ, Định, Chấp, Nguy, Thành, Khai, những trực này trong lịch thường in màu ĐỎ; còn những trực: Kiến. Mãn, Bình, Phá, Thâu, Bế, người ta ít dùng tới, trong lịch thường in mực ĐEN).
3. Hai mươi bốn (24) tiết khí thuộc 12 tháng:
Lập Xuân, | Vũ Thủy | là tháng Giêng | (1) |
Kinh Trập, | Xuân Phân | là tháng Hai | (2) |
Thanh Minh, | Cốc Vũ | là tháng Ba | (3) |
Lập Hạ, | Tiểu mãn | là tháng Tư | (4) |
Manh Chủng, | Hạ Chí | là tháng Năm | (5) |
Tiểu Thử, | Đại Thử | là tháng Sáu | (6) |
Lập Thu, | Xử Thử | là tháng Bảy | (7) |
Bạch Lộ, | Thu Phân | là tháng Tám | (8) |
Hàn Lộ, | Sương Giáng | là tháng Chín | (9) |
Lập Đông, | Tiểu Tuyết | là tháng Mười | (10) |
Đại Tuyết, | Đông Chí | là tháng Mười Một | (11) |
Tiểu Hàn, | Đại Hàn | là tháng Chạp | (12) |
4. Hiểu thêm về sự kiết hung của 28 vị sao (tức Nhị Thập Bát Tú), mỗi vị đóng một ngày. Cữ luân chuyển mãi: Giác (kiết), Cang (hung), Đê (hung), Phòng (kiết), Tâm (hung), Vĩ (kiết), Ky (kiết), Đẩu (kiết), Ngưu (hung), Nữ (hung), Hư (hung), Nguy (hung), Thất (kiết), Bích (kiết), Khuê (hung), Lâu (kiết), Vị (kiết), Mão (hung), Tất (kiết), Chủy (hung), Sâm (kiết), Tỉnh (kiết), Quỷ (hung), Liễu (hung),Tinh (hung), Trương (kiết), Dực (hung), Chẩn (kiết). Trong lịch Tàu, 28 vị sao này hể tốt thì in mực đỏ còn xấu thì in mực đen.
Các điều kiện tiên quyết tạm đủ, giờ đến việc chọn ngày.
- Theo Nông lịch (tức Âm lịch hay Lịch ta) thì tháng thiếu là 29 ngày, tháng đủ là 30 ngày. Tuy lịch để như vậy nhưng khi chọn ngày không phải cứ dở lịch ra thấy 29 hay 30 ngày là tính qua tháng khác đâu, ta phải căn cứ theo 24 tiết khí hay là chỗ hòa trực (giáp trực hay đồng trực) mà tính qua tháng khác, nếu không theo tiết hoặc theo trực là tính sai tháng. Bởi vậy, có khi đã leo qua tháng sau 5, 7 ngày mà vẫn phải tính ở tháng trước, hoặc còn 5, 6 ngày mới hết tháng mà phải tính cho tháng sau. Nên để ý đầu tiết bao giờ cũng đi liền hai trực, một trực là cuối tháng, một trực là đầu tháng.
- Nếu coi ngày đám cưới thì phải theo tuổi của chú rể, coi ngày làm nhà phải theo tuổi của người chồng; người vợ hay cô dâu là phụ thuộc nên không ảnh hưởng gì. Coi ngày giờ tẩn liệm, chôn cất phải coi theo tuổi của người chết.
- Tuổi và ngày phải được Tam hạp hay Lục hạp, Chi đức hạp, Tứ kiểm hạp, tránh Lục xung, Lục hình, Lục hại. Về Ngũ hành phải được tương sanh hoặc tỳ hòa, tránh tương khắc.
- Đây chỉ chuyên nói về ngày giờ TẨN LIỆM, CHÔN CẤT.
khó thật!
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaXin cám ơn tác giả, rất hữu ích
Trả lờiXóaCùng là cách suy diễn các câu thơ trên tôi bổ sung cách tính có thể hay hơn, bạn thử nghiên cứu:
Trả lờiXóaLộ kiếm đầu giang thành
Lạp dương tuyền ốc tích
Bá trường sa sơn bình
Bích bạch phúc hà trạch
Xuyến tang khê trung thiên
Thạch đại hải lư lâm. 6 chữ in hoa: Lộ Lạp Bá Bích Xuyên Thạch (xuyến coi = xuyên) ứng với các đầu của năm 30 40 50 60 70 80. Chỉ cần bỏ số cuối - 2 hoặc -8 với thế kỷ 20 là ra chữ đầu. Thế kỷ 21 thì cộng 1
Ví dụ bạn sinh năm 1979 => bằng cách 7-2 = 5. Bấm xem Lộ Lạp Bá Bích Xuyên Thạch. Nó là Xuyên. Xuyên tang khê trung thiên. Số 9 nằm cuối => Thiên => Thiên Thượng Hỏa. Thế kỷ 19 thì tính thế này ví dụ 1891. Ta lấy 189/6 dư 3 rồi lại bấm theo cách trên
Trả lờiXóaCũng có 1 cách tính về tuổi thế này: Thế kỷ 20 đầu năm là 1900 tương ứng Canh Tý. Giả sử bạn sinh năm 1938 thì tuổi gì. Ta lấy 38/12 dư 2. 0 = tý, 1 sửu, 2 dần => bạn tuổi Dần. Còn Canh Tân Nhâm Quý ... tương ứng. Các cụ ngày xưa không có năm dương lịch nên cứ phải tính lòng vòng
Trả lờiXóaCách tính thế kỷ: Thân Tý Thìn rồi suy chu kỳ. Thế kỷ 20 đầu tý => 21 đầu thìn rồi lại tính kiểu Thìn tị ngọ mùi....
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa